Sinh trưởng nơi quê hương văn hiến, trong
một dòng họ nhà nho, một gia đình có người mẹ thông minh, nhân đức, mọi
người cho phong độ hiền tài, Nguyễn Đăng Đạo thuở nhỏ đã tỏ ra hơn
người, thông minh đĩnh ngộ, chăm chỉ học hành, có chí nối nghiệp cho
dòng họ.
Tương truyền khi phu nhân Ngọc Nhĩ có thai ông, một
đêm mùa hạ trăng sáng như ban ngày, bà ra giếng lấy nước, chợt thấy một
ngôi sao lớn rơi vào thùng nước bèn lấy khăn chụp bịt miệng thùng lại
mang về. Sáng hôm sau, bà nói chuyện lại cho Đông các Nguyễn Đăng Cảo
(anh trai của Nguyễn Đăng Minh, bác ruột của Nguyễn Đăng Đạo) nghe việc
sao rơi vào thùng nước đêm qua. Ông Đăng Cảo cho là điềm lành, khuyên
dùng nước ở thùng đó để ăn uống sẽ sinh quý tử. Bà Ngọc Nhĩ nghe lời,
khi có mang đến ngày đến tháng thì sinh được một con trai, mặt mũi khôi
ngô sáng sủa, đặt tên là Nguyễn Đăng Đạo. Bà đỡ thấy cậu bé khác người
cũng nói rằng đây chính là trạng nguyên nên phải tắm rửa sạch sẽ, nuôi
nấng chu đáo.
Lúc mới một tuổi, Nguyễn Đăng Đạo thường được bác
ruột là thám hoa Nguyễn Đăng Cảo rất yêu quý, lúc nào cũng theo bên cạnh
hoặc bế đi chơi và thường nói khoe với mọi người về Nguyễn Đăng Đạo
rằng: “Triều đình ghét ta không cho đỗ trạng nguyên, nhưng còn thằng bé
ngày sau không cho nó đỗ là không được đâu!”.
Nguyễn Đăng Đạo khi lên ba tuổi, lại được bác Nguyễn
Đăng Cảo cho theo lên biên giới nhân một chuyến đi tiếp sứ nhà Thanh. Sứ
Thanh trông thấy Đăng Đạo còn nhỏ tuổi rất lấy làm kinh ngạc, liền hỏi
rằng: “Bé như vậy mà đã vượt qua trăm núi nghìn sông lam chướng hiểm
trở, vẫn nhanh nhẹn tháo vát, thật là kỳ đồng?”. Đôi câu đối còn lưu
được tại nhà thờ Nguyễn Đăng Đạo ngày nay:
Tam tuế kỳ đồng kinh sứ Bắc
Thập niên tể tướng trong triều Nam.Trong đó có vế đối “Tam tuế kỳ đồng kinh
sứ Bắc” (Ba tuổi kỳ đồng làm kinh ngạc sứ giả Bắc triều) chính là nói sự
kiện này trong cuộc đời Nguyễn Đăng Đạo xưa.
Năm 16 tuổi Nguyễn Đăng Đạo đi thi đỗ tam
trường. Đến năm 19 tuổi ông đi thi Hương đỗ đầu hương cống, được vào
học ở Quốc Tử Giám. Ông tiếp thu kiến thức rất giỏi, tỏ ra có sức học
phi thường, được bạn bè đồng học mến phục. Đến năm Chính Hòa thứ tư
(1683) thi Đình, ông đỗ trạng nguyên.
Trong khoảng 10 năm 1688 đến 1697 theo sách sử như
Việt sử thông giám cương mục và Lịch triều hiến chương loại chí đã ghi
lại, nhiều vụ lấn chiếm biên giới nước ta của quan lại nhà Thanh đã xảy
ra:
“Tháng 5 - 1688 thổ ti Vân Nam nhà Thanh xâm chiếm
biên giới ở ba châu thuộc Tuyên Quang và châu Thủy Vĩ thuộc Hưng Hoá
giáp liền với địa phủ Khai Hóa nhà Thanh... Từ đấy trở đi đất ở ba châu
bí mật về nhà Thanh.”
“Tháng 6 - 1689, triều đình cử Đinh Tuấn Khoa, Hữu
thị lang bộ Hình hội với quan nhà Thanh để khám xét biên giới thôn Na
Oa, châu Lộc Bình thuộc Lạng Sơn... Tranh cãi mãi cuối cùng đất Na Oa
vẫn bị mất về nhà Thanh.”
Năm 1690 Việt Nam cử một phái đoàn gồm chánh sứ là
Nguyễn Danh Nho, Nguyễn Quý Đức, phó sứ Nguyễn Tiến Sách và Trần Thọ
sang nhà Thanh nộp lễ tế cống. Nhân tiện tâu về việc: 1) Dư đảng họ Mạc
lẩn lút ở Vân Nam họp bè đảng cướp bóc biên giới thuộc Tuyên Quang, Hưng
Hóa và Cao Bằng. 2) Thổ ti ở Khai Hóa và Mông Tự xâm chiếm các thôn
động ở các châu Bảo Lạc, Vị Xuyên, Thủy Vĩ và Quỳnh Mai xin tra xét cho.
Nhưng triều nhà Thanh vẫn ỉm việc này đi, không trả lời.
Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú
thì đất đai bị mất do quân nhà Thanh lấn chiếm không phải chỉ là ba
động mà còn nhiều hơn. Năm 1691 sứ thần nước ta tâu với nhà vua: Thổ ti
phủ Khai Hóa xâm chiếm 60 động biên giới thuộc ba châu Vị Xuyên, Bảo Lạc
và Thủy Vĩ và xâm chiếm ba châu Quảng Lăng, Hoàng Nham và Hợp Phì.
Tháng giêng năm Đinh Sửu (1697) triều đình sai chánh sứ là Nguyễn Đăng
Đạo và Nguyễn Thế Bá, phó sứ là Đặng Đình Tường và Nhữ Tiến Hiền sang
Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) nộp tuế cống và dâng quốc thư xin vua Thanh
trả đất ba động. Nguyễn Đăng Đạo đã bàn luận với quan trong triều
Thanh, trình bầy những bằng chứng để chứng minh ba động đó là của Việt
Nam. Nhưng quan lại nhà Thanh đem bản đồ Vân Nam có vẽ ba động của Việt
Nam và nói với vua Thanh: “Ba động ấy là của Trung Hoa từ đời nhà Minh
nếu sứ thần Việt Nam đòi mà vua chịu trả thì sau này họ đòi cả Lưỡng
Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) là đất của Triệu Đà nước Nam Việt ngày
xưa thì Trung Hoa cũng phải trả à”. Vua nhà Thanh nghe vậy bèn gạt việc
đòi đất đi.
Tuy chưa đòi được đất nhưng thư của vua Nam đã đến
tận tay vua Thanh. Những lý lẽ của Nguyễn Đăng Đạo làm cho vua Thanh
phải để ý đến việc đất đai vùng biên giới và phải khen tài ứng đối, biện
bác xuất sắc của Nguyễn Đăng Đạo đã thể hiện văn tài của trạng nguyên
nước Nam, nên theo tương truyền, đã phong cho Đăng Đạo là Lưỡng quốc
trạng nguyên. Sứ bộ đi từ tháng giêng năm trước đến mãi tháng sáu mùa hè
năm 1698 mới về đến Thăng Long.Làm tới chức Tể tướng Thượng thư nhưng ông không bao giờ quên rằng
dân ta còn rất đói khổ lam lũ. Nguyễn Đăng Đạo đã thường xuyên quan tâm
đến đời sống dân chúng. Những dịp từ triều đình về quê, ông thăm hỏi
khuyến khích việc cần lao, việc học hành của dân quanh vùng. Tôn trọng
truyền thống tín ngưỡng của một cùng quê nhiều chùa chiền thờ thần, ông
còn góp tiền cho xây dựng tu bổ đình đền miếu mạo ở quê hương. Chùa Bách
Môn tương truyền là do ông cho tu bổ xây dựng lại trong thời kỳ này.
Nhân dân làng Hoài Bảo vẫn còn nhớ câu chuyện chia ruộng vua ban cho
dân xưa kia. Đấy là, do việc Nguyễn Đăng Đạo được triều đình ban cho
ruộng lộc nhưng vốn tính liêm khiết, ông nhất mực từ chối không nhận.
Vua và các triều thần nói mãi, ông Đăng Đạo bèn xin lĩnh khu ruộng bỏ
hoang đầy lau lách và cỏ dại, xấu nhất gọi là cánh đồng cầu Vực. Sau đó,
ông cho các gia đình nghèo khó ra đó phát cỏ, cải tạo để làm thành
ruộng cày cấy được. Khi đã trở thành khoảng ruộng tốt, ông chia hẳn cho
các gia đình...
Nhân dân quanh vùng còn nhớ ơn ông Nguyễn Đăng Đạo cứu đói cho dân:
Một năm kia, trời làm mất mùa, dân chúng quê ông đói khổ, làng xóm tiêu
điều. Thấy vậy ông liền viết thư về khuyên phu nhân phát tiền gạo cứu
giúp người nghèo đói, với lời lẽ cảm động và tình thương dân sâu nặng
của vị quan đại thần: “Ta thân danh làm quan đại thần coi việc triều
đình không nỡ ngồi nhìn nhân dân ta đói mà không xót thương, phu nhân
hãy đem tiền thóc của nhà ra mà cứu đói, cấp thóc cho dân gieo mạ cấy
tái giá”. Nhờ đó mà dân địa phương vượt được bước khó khăn, làm vụ sau
bội thu. Dân chúng được no ấm, cảm ơn ân nghĩa và công đức của quan
trạng Đăng Đạo đã có lời ca truyền tụng:
Bất hữu Trạng nguyên tiền
Ngô dân hà dĩ an
Bất hữu Trạng nguyên túc
Ngô dân hà dĩ dục
Tướng công chi đức
Lịch vạn thế nhi bất vongNghĩa là:
Không có tiền quan Trạng
Dân ta làm sao sống yên lành
Không có lúa của quan Trạng
Dân ta làm sao nuôi nhau được
Đức của Tướng công
Trải muôn đời nhắc nhở khôn cùng.Nguyễn Đăng Đạo làm Đô đài ngự sử ngót 30
năm rồi thăng Tham tụng, sau thăng Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các đại
học sĩ, tước Bá. Ông là vị quan tài giỏi, cần kiệm liêm chính, tận tụy
mưu phúc lợi cho nhân dân, nên được người dân và sĩ phu trọng vọng.
Năm Kỷ Hợi (1719), ông mất, thọ 68 tuổi, được tặng là
Thượng thư bộ Lại, tước Quốc công. Ông còn để lại cho đời một tập thơ
nhan đề: Nguyễn Trạng Nguyên phụng sứ tập (Tập thơ làm lúc đi sứ của
trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo).